Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2017

W.E. Deming là ai?

W.E. Deming, cha đẻ quản lý chất lượng



,
Kiểm soát chất lượng bằng phương pháp thống kê, từ đó, hình thành một triết lý mới về quản lý công việc, W.E. Deming (1900-1993) được xem là "cha đẻ của quản lý chất lượng”.
William Edwards Deming sinh ngày 14/10/1900 tại thành phố Sioux, Iowa, Mỹ.
Không chỉ được tôn vinh là “cha đẻ của quản lý chất lượng”, ông còn được cả thế giới thừa nhận là “một cố vấn trong ngành thống kê học”. Con đường trở thành một nhà thống kê nổi tiếng của Ed Deming rất quanh co nhưng cũng đầy may mắn bất ngờ .
  • Lớn lên trong nghèo khó…
Deming sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo túng.
Khi còn là một cậu bé, mỗi tuần Deming kiếm được 1,25 USD khi làm việc trong một khách sạn. Ngoài ra, cậu bé Deming còn nhận việc thắp sáng 5 ngọn đèn đường bằng dầu hỏa của thị trấn với thù lao 10 USD mỗi đêm .
Có lẽ, hoàn cảnh  thời thơ ấu đã ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách tiết kiệm ở Deming. Sau này, khi đã trở thành một chuyên gia, ông luôn chống lại những lề thói lãng phí từ ngay trong quá trình quản lý sản xuất. 

Sau khi tốt nghiệp kỹ sư điện tại đại học Wyoming năm 1921, Ed. Deming tiếp tục theo học ngành toán học thêm 3 năm. Năm 1925, ông nhận bằng Thạc sĩ tại trường ĐH Colorado ngành Toán học và ngành Vật Lý. Năm 1928, ông tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Toán Lý tại ĐH Yale.
Trong hai năm 1925 và 1926, trong những tháng hè, Deming đã làm việc tại Nhà máy sản xuất thiết bị điện miền Tây Hawthorne (Western Electric Hawthorne Plant) Tại đó, ông đã gặp GS. Walter A. Shewhart.
Shewhart trở thành người cố vấn đầy kinh nghiệm và đã dạy ông cách ứng dụng thống kê vào tính toán và quản lý quá trình thay đổi. Những học thuyết của Shewhart về kiểm soát sử dụng kỹ thuật thống kê trở thành nền tảng cho công việc sau này của Deming. Hiểu biết rõ những biến động luôn xảy ra  trong mọi quá trình sản xuất sẽ trở thành một trong những yếu tố quan trọng trong triết lý của Deming.
Bắt đầu từ năm 1943 và sau đó hai năm, Deming đã triển khai một loạt các khoá học thực nghiệm 8 tuần cho công nghiệp sản xuất vũ khí. Ông dạy các kỹ năng Kiểm soát Chất lượng bằng Thống kê (Statistical Quality Control – SQC) cho các công nhân sản xuất vũ khí, từ việc kiểm soát quá trình thống kê đến vòng tròn Kế hoạch – Thực hiện – Kiểm tra – Điều chỉnh (Plan, Do, Check, Act – PCDA). Những khóa học này đã làm giảm lảng phí và cải tiến chất lượng vũ khí trong suốt thời gian chiến tranh.
Nhưng sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, so với phần còn lại của thế giới, nước Mỹ giống như một con tàu kinh tế không có điểm dừng.
  • Nước Mỹ tự mãn, nước Nhật kiên cường học hỏi...


Lúc này, nhiều nước có nhu cầu to lớn  về các sản phẩm hàng loạt của Mỹ nên các công ty Mỹ không cần phải áp dụng các phương pháp quản lý mới để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Vì thế, học thuyết của Deming về quản lý chất lượng mờ dần rồi biến mất.
Deming đã nhìn thấy sự tự mãn này và cảm thấy buồn vì sự quản lý ngưng trệ và thiếu hiểu biết của những nhà quản lý Mỹ. Khi có quá ít người lãnh đạo ở Mỹ chịu nghe lời khuyên của Deming, ông đã quyết định tìm đến một đất nước chịu nghe và chịu thay đổi: Nhật Bản.
Năm 1947, Deming đã khuyên Đại tướng MacArthur, chỉ huy Lực lượng các Cường quốc Đồng Minh, ứng dụng kỹ thuật thống kê để định hướng cho việc tái thiết Nhật Bản sau Chiến tranh. Cũng trong thời gian này, ông đã có những cuộc tiếp xúc đầu tiên với một vài chuyên gia thống kê Nhật Bản và trở thành một thành viên danh dự của Hiệp hội Thống kê Nhật bản.
Trong nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế sau chiến tranh, vào tháng 7/1950, Hiệp hội Kỹ sư và Khoa học gia Nhật Bản (Japanese Union of Scientists and Engineers – JUSE) đã mời Deming sang Nhật để hướng dẫn họ các kỹ thuật kiểm soát thống kê.
Tại Nhật, Deming đã đưa ra 12 bài giảng đầu tiên về Kiểm soát Chất lượng bằng Thống kê (SQC) cho người Nhật. Không giống những giáo trình trước, Deming đã đem các nhà quản trị Nhật nhắm tới khái niệm: Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ làm giảm chi phí trong khi gia tăng năng suất và tăng thị phần.
Các nhà máy Nhật Bản đã áp dụng rộng rãi học thuyết này. Người Nhật ngày càng trở nên lão luyện đối với các đòi hỏi của quốc tế về chất lượng sản phẩm. Năm 1960, William Edwards Deming trở thành người Mỹ đầu tiên nhận Huân chương Cao quý Hạng hai (Second Order of the Sacred Treasure) do Thủ tướng Nhật Bản trao tặng.
Chỉ một vài thập kỷ sau, năng suất của nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu đi xuống. Đặc biệt, nền sản xuất của Mỹ trong thập niên 1970 hoàn toàn đình trệ. Khi những công ty hàng đầu của Mỹ bị các đối tác Nhật Bản giành lấy thị phần và đối mặt với nguy cơ phá sản thì việc tiến hành những thay đổi là điều bắt buộc. Vì thế, E.Deming lại có đất dụng võ. Trong suốt thập niên 1980, tại Mỹ, ông đã giảng dạy quản lý chất lượng thông qua kiểm soát các quá trình sản xuất theo kỹ thuật thống kê cho các công ty như Ford, Xerox và General Motors.
Tháng 6/1980, Đài NBC làm một bộ phim tài liệu với tựa đề “ Người Nhật làm được, tại sao chúng ta không...?" và phỏng vấn Deming. Đây là một bước ngoặt cho sự nghiệp cố vấn về quản lý chất lượng của ông tại Mỹ. Năm 1987, tức 27 năm sau khi ông được Hoàng gia Nhật Bản trao tặng huân chương cao quý dành cho những đóng góp của ông, Tổng thống Mỹ Reagan đã trao cho Deming Huân chương Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (National Medal of Technology)
Năm 1988, ông nhận được giải thưởng vì sự nghiệp khoa học (Distinguished Career in Science award) của Học viện Khoa học Quốc gia (National Academy of Sciences). Ông còn nhận nhiều giải thưởng khác, bao gồm Huy chương Vàng Shewhart (Medal Shewhart) của Hiệp hội Quản lý Chất lượng năm 1956, và giải thưởng Samuel S.Wilks năm 1983 từ Hiệp hộiThống kê Mỹ (American Statistical Association)
Ông là tác giả của vài quyến sách và 200 bài báo. Những tác phẩm tiêu biểu của ông, “Ra khỏi cơn khủng hoảng” (“Out of the Crisis”, 1986), “ Nền Kinh tế mới” (“The New Economics”, 1994) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Hàng trăm, mà có lẽ là hàng ngàn của sách, phim, và những băng ghi hình về tiểu sử của ông, về triết học của ông và những ứng dụng thành công trong quá trình giảng dạy của ông trên khắp thế giới. Trong mười năm, những buổi hội nghị chuyên đề 4 ngày hàng năm của E.Deming thường có khoảng 10.000 người tham gia.
Khách hàng của ông là những nhà sản xuất, các công ty điện thoại, ngành đường sắt, nghiên cứu khách hàng, bệnh viện, công ty luật, các văn phòng chính phủ, các trường đại học…
  • Chất lượng công việc phụ thuộc vào quản lý
Deming chủ trương theo dõi chặt chẻ mọi quá trình sản xuất bằng công cụ thống kê. Bằng công cụ thống kê, người ta sẽ xác định chính xác những nguyên nhân sai lỗi trong quá trình sản xuất để tiến hành khắc phục sai lỗi hoặc cải tiến công việc. Trên cơ sở đó, năng suất và chất lượng sản phẩm, dịch vụ được nâng cao. Bằng cách này, người ta không phải tốn kém nhiều nhưng vẫn duy trì được một bộ máy làm việc hiệu quả, năng suất cao. 

Deming tin rằng 80 – 85% chất lượng sản phẩm, dịch vụ  có đạt hay không là do ở vấn đề quản lý.
Trong một lần phải nhập viện, Deming nhận thấy các y tá đều làm việc chăm chỉ. Họ là những y tá được giáo dục tốt nhưng bị hệ thống quản lý tồi  làm cho chán nản. Ông biết rằng các bác sĩ, y tá có thể không cần làm việc cực khổ hơn nữa nhưng chất lượng phục vụ vẫn thỏa mãn nhu cầu khách hàng, nếu có thể phá vỡ hệ thống quản lý tồi đang thủ tiêu những nỗ lực làm việc và niềm vui trong công việc của họ. Trong khi đó, một quan chức ngành y tế Mỹ lại nói, chỉ cần nhân viên nỗ lực làm việc hết sức mình là có thể đạt đến chất lượng công việc
Nhưng Deming đã phát biểu “Chúng ta đang bị tàn phá bởi những sự nỗ lực hết mình đó” và ông nói thêm “Những nỗ lực tốt nhất cũng không thay thế được kiến thức.” Ông cho rằng, các nhà quản lý đã nguỵ biện cho sự ngu dốt...

Theo Deming, việc nắm bắt được nhu cầu khách hàng, có một hệ thống ý tưởng, mục đích bất biến và niềm vui trong công việc hàng ngày sẽ luôn giữ vị trí hàng đầu. Những sản phẩm và dịch vụ có những chất lượng tốt và ổn định sẽ đem đến việc làm, sự thịnh vượng và hoà bình.
Ông khẳng định, trong công việc, người lãnh đạo cao nhất là người duy nhất có thể sữa chữa lại những vấn đề trong công tác tổ chức quản lý.
Ở Mỹ, E. Deming được xem là một anh hùng của chất lượng bởi vì sự kiên trì và bền bỉ trong việc thực hiện và làm gia tăng niềm vui trong công việc, vì những chỉ trích của ông về  tình trạng không tận dụng khả năng của nhân công bằng các phương pháp quản lý khoa học.
Ông là một trong những người đầu tiên dạy rằng hệ thống được thiết kế như thế nào sẽ đem lại kết quả như thế ấy và người lao động trong hệ thống không phải là những nguyên nhân gây ra sai lỗi.
Các nhà lãnh đạo phải có một tầm nhìn và các nhà quản lý phải thực hiện những bước cần thiết để tái thiết lại hệ thống nhằm cải thiện chất lượng, thoả mãn trong công việc, và giảm thiểu sự lãng phí. Deming phát biểu “Công việc của quản lý sẽ tối ưu hoá toàn bộ hệ thống sản xuất.”
  • Học thuyết Quản lý chất lượng
Học thuyết chất lượng của Deming và những yếu tố cần thiết để nâng cao chất lượng được tóm tắt trong “Hệ thống những kiến thức sâu rộng”. Những kiến thức này đã biên soạn thành 4 yếu tố chính:
• Đánh giá đúng một hệ thống
• Hiểu biết về những biến động trong quá trình thực hiện sản xuất, dịch vụ
• Nguyên lý của kiến thức
• Hiểu biết về tâm lý học và hành vi của con người.
Trong tác phẩm “Thoát khỏi cơn khủng hoảng”, ông đã dưa ra 14 điểm nhằm Quản lý cải tiến chất lượng. Đối với văn hóa Mỹ, những thay đổi như vậy không được chấp nhận dễ dàng. Chính vì vậy đã khiến cho nền công nghiệp Mỹ không đạt được những kết quả ấn tượng như người Nhật đã đạt được.
1. Xây dựng những mục đích bất biến dành cho sự cải tiến sản phẩm và dịch vụ nhằm mục tiêu để có thể cạnh tranh, tồn tại trong giới kinh doanh, và tiếp tục tạo ra công ăn việc làm.
2. Người quản lý phải ý thức được trách nhiệm của mình và đảm nhiệm vị trí dẫn đầu trong mọi thay đổi.
3. Xây dựng kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ đầu vào.
4. Đầu tư thời gian và kiến thức giúp cải tiến chất lượng và giảm thiểu toàn bộ chi phí. Lợi nhuận được tạo ra bởi các khách hàng trung thành và thường xuyên.
5. Quá trình không bao giờ hoàn toàn tối ưu. Phải luôn luôn cải tiến và hoàn thiện kế hoạch, sản phẩm, dịch vụ. Nâng cao chất lượng và năng suất dẫn đến giảm bớt chi phí đầu tư.
6. Tiến hành các lớp huấn luyện công việc. Đây là những hoạt động hằng ngày của mọi nhân viên trong doanh nghiệp.
7. Huấn luyện cách thức lãnh đạo. Mục tiêu của sự giám sát là giúp đỡ nhân viên, và cải tiến thiết bị và máy móc để làm cho công việc tốt hơn. Sự giám sát trong quản lý, trong việc kiểm tra cũng kỹ lưỡng như việc giám sát các công nhân sản xuất.
8. Nỗi lo sợ bị phạt sẽ dẫn đến tàn phá. Loại bỏ các nguyên nhân gây ra nỗi sợ hãi, nhờ vậy mọi người có thể yên tâm làm việc một cách có hiệu quả hơn cho công ty.
9. Phá vỡ các rào cản giữa nhân viên các phòng ban. Nhân viên của phòng thiết kế, nghiên cứu kinh doanh hay sản xuất phải tạo thành một nhóm làm việc, để cùng nhau nhìn thấy trước những vấn đề có thể xảy ra cho sản phẩm và trong việc sử dụng sản phẩm đó hay dịch vụ đó.
10. Loại bỏ những khẩu hiệu, những lời hô hào và các tiêu chí “khuyết tật ở mức zero” và sự vươn tới mức một năng suất mới. Những câu hô hào chỉ tạo ra các mối quan hệ đối phó, vì phần lớn những nguyên nhân dẫn đến chất lượng và năng suất thấp thuộc về hệ thống và nằm ngoài quyền năng của công nhân viên.
11. Loại bỏ những tiêu chuẩn công việc (định mức) trong các công xưởng, thay thế vào đó bằng sự lãnh đạo khoa học. Loại bỏ quản lý bằng những số, những mục đích bằng con số. Thay vào đó là khả năng lãnh đạo


12. Hầu hết các biến đổi đều do hệ thống tạo ra, cần xem xét lại hệ thống. Phê phán, phạt, xếp thứ bực công nhân dưới trung bình có thể phá đi tinh thần đồng đội của công ty. Loại trừ những rào cản đã cướp mất của người lao động lòng tự hào trong nghề nghiệp. Loại bỏ các hệ thống đánh giá hàng năm hay bổ nhiệm nhân viên dựa trên công trạng của họ.
13. Thiết lập một chương trình giáo dục mạnh mẽ và tự cải tiến trong mỗi người. Hãy để cho mỗi người tham gia và tự chọn cho mình một lĩnh vực thích hợp để phát triển.
14. Đặt nhân viên trong công ty luôn làm việc để đạt đến sự thay đổi. Thay đổi là công việc của mọi người.
Trong các bài báo của ông sau khi ông tốt nghiệp ĐH Yale, chủ yếu nêu lên những khía cạnh lý tính của vấn đề, tuy nhiên cũng có vài điểm chứng tỏ mối quan tâm của Deming về phương pháp luận thống kê. Từ một nhà toán lý trở thành một nhà thống kê đã giúp bản thân Deming rất nhiều.

Ngoài ra, kết quả phân tích thực nghiệm trong lĩnh vực vi khuẩn học và hóa học đã giúp Deming có cơ hội tìm hiểu thêm về điều chỉnh thống kê các dữ liệu. Trên tạp chí Triết học, ông đã viết về “Ứng dụng của những hình vuông bé nhất.” Trong tác phẩm của mình-"Điều chỉnh thống kê dữ liệu" (Statistical Adjustment of Data), ông đã kết hợp tất cả các kiến thức mà ông đã học để viết về đề tài này. Hiện nay, tác phẩm này vẫn còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo chỉ dẫn cho việc ứng dụng phương pháp tính toán thấp nhất trong nhiều trường hợp khác nhau.
Các công trình nghiên cứu của Ed Deming đã đem lại hiệu quả trong việc cải tiến chất lượng. Và ông được cả thế giới gọi là nhà “tiên tri chất lượng” và là nhà triết học của quản lý.
Những đóng góp to lớn của Deming trong lĩnh vực thống kê vẫn còn ảnh hưởng cho tới nền kinh tế hiện đại. Suốt cuộc đời ông, ông đã bảo vệ cho niềm tin rằng lý thuyết thống kê cho thấy rằng toán học, sự phán xử, kiến thức thực tiễn được kết hợp chung với nhau trong công việc sẽ đem lại nhiều thuận lợi. Ông là bậc thầy của ngành lôgich học và là kiến trúc sư của thống kê học.
William Edwards Deming mất vào ngày 20/12/1993.
********************************************************************************************

Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

*****VietGAP*****

VietGAP là chữ viết tắt của Vietnamese Good Agricultural Practices, nghĩa là Thực hành sản xuất nông nghiệp tôt. Đó là việc áp dụng các biện pháp sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm sạch và an toàn, đặc biệt là các sản phẩm về rau quả tươi.

Lợi ích VIETGAP

Trước khi VietGAP ra đời, nước ta đã có rất nhiều chương trình sản xuất nông sản an toàn đối với rau, quả, và cây dùng làm thức uống. Nhiều nơi các quy định đó đã xây dựng thành quy trình phổ biến cho nông dân thực hiện.
Tuy nhiên, do chưa có đơn vị nào có trách nhiệm kiểm tra và chứng nhận kịp thời hoặc có chính sách khuyến khích cho người sản xuất, nên phong trào sản xuất nông sản sạch chưa được phát triển rộng rãi, có nơi bị lụi dần rồi đi vào dĩ vãng.
Thế rồi vào năm 2004, Hiệp hội Trái cây VN tham gia vào một dự án có tên “Tăng cường năng lực cạnh tranh” (VNCI) do VCCI (Phòng Thương mại và Công nghiệp VN) chủ trì và đã tổ chức một chuyến thăm chương trình liên kết Mỹ – Thái đang thực hiện EUREPGAP và thăm “Liên kết GAP miền Tây Thái Lan”.
Cũng năm đó, Hiệp hội Trái cây VN cùng với Hội Làm vườn và VCCI tổ chức hội thảo giới thiệu về GAP (EUREPGAP) tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau hội thảo này, năm 2005, liên kết GAP sông Tiền bao gồm 6 tỉnh có trái cây đã được thành lập, hoạt động rất gắn bó và đã đem lại những kết quả đáng khích lệ.
Cũng trong năm 2005, Tổ chức Thị trường quốc tế (IMO) đã tổ chức chứng nhận GAP cho một số cơ sở sản xuất rau, cà phê ở Đà Lạt. Tiếp theo đó là các đơn vị sản xuất thanh long ở Bình Thuận, lâm ngư trường tôm ở miền Tây cũng lần lượt được công nhận sản xuất đạt tiêu chuần GAP.
Do nhận thức được tầm quan trọng và tính chất bức xúc để có “GAP” cho VN nên chi nhánh Hội Làm vườn VN được tổ chức Syngenta VN tài trợ đã có chuyến thăm quan, khảo sát việc thực hiện GAP ở Malaysia từ ngày 5-8 tháng 11 – 2007. Đoàn do TS Võ Mai – Chủ tịch Hiệp hội Trái cây, dẫn đầu cùng với 6 thành viên khác. Người viết bài này cùng tham gia chuyến khảo sát và đã thu lượm được những nội dung chủ yếu về bước đi và lợi ích việc thực hành các dạng GAP ở Malaysia.
Tiếp theo đó đoàn cũng đệ trình 1 bản tường trình với lãnh đạo Bộ NN&PTNT về tính cấp thiết của việc ra đời VietGAP. Thế rồi, ngày 28-1-2008, VietGAP ra đời tiếp sau EUREPGAP, GlobalGAP và GAP của một số nước châu Á khác. Dù ra đời muộn, VietGAP đã thừa hưởng được kinh nghiệm của nhiều GAP đi trước nên đã nhanh chóng phát huy tác dụng.
Đến hôm nay đã có đến hàng trăm tổ chức, đơn vị và cá nhân đã có sản phẩm được công nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP và đang tham gia vào các dịch vụ buôn bán các sản phẩm nông sản ngang hàng với các nước trong khu vực và thế giới.

Cụ thể là việc quy định rỏ ràng những yếu tố chính trong sản xuất nông nghiệp như:

  1. Đánh giá và lựa chọn vùng sản xuất
  2. Giống và góc ghép
  3. Quản lý đất và giá thể
  4. Phân bón và chất phụ gia
  5. Nước tưới
  6. Hóa chất (bao gồm cả thuốc bảo vệ thực vật)
  7. Thu hoạch và xử lý sau thu hoạch
  8. Quản lý và xử lý chất thải
  9. An toàn lao động
  10. Ghi chép, lưu trử hồ sơ, truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản phẩm
  11. Kiểm tra nội bộ
  12. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Ví dụ như quy định mức giới hạn tối đa cho phép của một số vi sinh vật và hoá chất gây hại trong sản phẩm rau, quả, chè
(Ban hành kèm theo Quyết định số 99 /2008/QĐ-BNN ngày 15 tháng 10 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
STTChỉ tiêuMức giới hạn tối đa cho phépPhương pháp thử (*)
IHàm lượng nitrat NO3
(quy định cho rau)
mg/kgTCVN 5247:1990
1Xà lách1.500
2Rau gia vị600
3Bắp cải, Su hào, Suplơ, Củ cải, tỏi500
4Hành lá, Bầu bí, Ớt cây, Cà tím400
5Ngô rau300
6Khoai tây, Cà rốt250
7Đậu ăn quả, Măng tây, Ớt ngọt200
8Cà chua, Dưa chuột150
9Dưa bở90
10Hành tây80
11Dưa hấu60
IIVi sinh vật gây hại
(quy định cho rau, quả)
CFU/g **
1Salmonella0TCVN 4829:2005
2Coliforms200TCVN 4883:1993;
TCVN 6848:2007
3Escherichia coli10TCVN 6846:2007
IIIHàm lượng kim loại nặng
(quy định cho rau, quả, chè)
mg/kg
1Arsen (As)1,0TCVN 7601:2007;
TCVN 5367:1991
2Chì (Pb)TCVN 7602:2007
– Cải bắp, rau ăn lá0,3
– Quả, rau khác0,1
– Chè2,0
3Thủy Ngân (Hg)0,05TCVN 7604:2007
4Cadimi (Cd)TCVN 7603:2007
– Rau ăn lá, rau thơm, nấm0,1
– Rau ăn thân, rau ăn củ, khoai tây0,2
– Rau khác và quả0,05
– Chè1,0
IVDư lượng thuốc bảo vệ thực vật
(quy định cho rau, quả, chè)
1Những hóa chất có trong Quyết định 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tếTheo Quyết định 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tếTheo TCVN hoặc ISO, CODEX tương ứng
2Những hóa chất không có trong Quyết định 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tếTheo CODEX hoặc ASEAN

Lợi ích của Việt GAP đối với nhà nông

Sau khi gia nhập WTO, ngành thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực, trong đó đáng chú ý là lượng đầu tư trực tiếp và gián tiếp đều tăng mạnh so với năm trước. Tuy nhiên, lượng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài chưa được như kỳ vọng. Một phần nguyên nhân chính là hàng hóa của chúng ta vấp phải các quy định về tiêu chuẩn hàng hóa rất khắt khe của các nước nhập khẩu.
Theo nhận định của các chuyên gia, thị trường xuất-nhâp khẩu nông sản trên thế giới đang được kiểm soát bởi những đại siêu thị, những tập đoàn đa quốc gia với các tiêu chuẩn rất cao về chất lượng sản phẩm cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Nắm bắt được những khó khăn trên, từ năm 2006, ASEAN đã công bố bản quy trình GAP (Good Agricultural Practices: Thực hành nông nghiệp tốt) chung cho các nước thành viên. Và năm 2008, Việt Nam cũng cho ra mắt tiêu chuẩn riêng của mình có tên viết tắt là VietGAP.
VietGAP là chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ A đến Z của dây chuyền sản xuất. Nó bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kể cả các yếu tố liên quan như: môi trường, các chất hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi của người lao động trong nông trại.
Hiện nay, sau 1 năm áp dụng VietGAP, nhiều hộ nông dân, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã thu được nhiều kết quả khả quan. Thanh long sạch, xoài sạch, quýt sạch… đảm bảo đúng tiêu chuẩn Viet GAP đã dần chiếm lĩnh được lòng tin của người tiêu dùng. Ngược lại, ở miền Bắc, người nông dân dường như chưa hiểu rõ VietGAP là gì và VietGAP có thể mang lại điều gì cho họ, hoặc cũng chưa nhận được sự hỗ trợ đầy đủ trong việc áp dụng đầy đủ các quy trình của Viet GAP.
Tháng 6 vừa qua, thông tin Trung Quốc yêu cầu chứng nhận nguồn gốc xuất xứ và cơ sở sản xuất đối với 5 loại trái cây chủ lực của Việt Nam đã làm các chủ nhà vườn lo lắng.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế tăng mạnh như hiện nay, nếu người nông dân Việt Nam không thay đổi thói quen sản xuất tự phát như trước, thì không những vấn đề xuất khẩu nông sản gặp khó khăn mà việc “thua ngay trên sân nhà” cũng là kết cục không thể tránh khỏi.
Đem những băn khoăn trên về vùng vải Lục Ngạn, Bắc Giang, nhân vật trải nghiệm của chương trình Sinh ra từ làng sẽ đưa khán giả gặp gỡ với những người nông dân vùng vải, tìm hiểu khó khăn của họ trong việc đảm bảo chất lượng và tìm đầu ra cho sản phẩm của mình
************************************************************************************************************************
Ms: Trang_0905707389

1 GÓC NHÌN VỀ NƯỚC ĐÓNG CHAI

Có rất nhiều loại nước uống gọi là “nước khoáng tinh khiết” kém chất lượng nhiễm vi khuẩn sau khi uống có người bị đau bụng. Cái khó là người tiêu dùng rất khó phân biệt thật giả.

Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng trên 300 cơ sở sản xuất nước đóng chai. Ngoài một số doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, thương hiệu quen thuộc được khách hàng biết đến, thì còn rất nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, làm bằng kỹ thuật thủ công, nguồn nước sản xuất phần lớn là nước giếng khoan, bơm lọc sơ qua rồi chiết vào chai, dán nhãn mác tung ra thị trường tiêu thụ, kiếm lời.
Có rất nhiều loại nước uống gọi là “nước khoáng tinh khiết” kém chất lượng nhiễm vi khuẩn sau khi uống có người bị đau bụng. Cái khó là người tiêu dùng rất khó phân biệt thật giả. Nước đã đóng chai thì màu sắc như nhau, có sạch hay không chỉ cơ sở sản xuất mới biết. Cuối cùng đành phải gửi tính mạng, sức khỏe mình vào cái tâm, cái đức của chủ doanh nghiệp.
Tại TP Hồ Chí Minh trong, tháng 1/2017 Chi cục ATVSTP TP (nay là Ban Quản lý ATTP TP) đã kiểm tra gần 200 cơ sở sản xuất nước đóng chai, phát hiện hàng loạt vi phạm như chưa có giấy chúng nhận cơ sở chưa đủ điều kiện ATTP, hoặc giấy phép đã hết hiệu lực, vi phạm về điều kiện vệ sinh, điều kiện trang thiết bị dụng cụ, đặc biệt vi phạm về nguồn nước sử dụng để sản xuất nước đóng chai...
Nhằm đảm bảo sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng, các ngành chức năng đã tăng cường kiểm tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện những cơ sở làm ăn gian dối để xử lý. Không chỉ dừng lại ở mức đóng cửa, thu hồi phép, mà có biện pháp xử phạt đủ sức răn đe, đồng thời công bố danh tính cơ sở vi phạm rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, nếu có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng chuyển sang xử lý hình sự.
Mặt khác, người tiêu dùng cần nâng cao ý thức tự bảo vệ mình bằng cách lựa chọn các cơ sở sản xuất nước đóng chai có uy tín, thương hiệu, nguồn gốc xuất xứ, địa chỉ rõ ràng tin cậy, nếu phát hiện những cơ sở làm ăn gian dối cần tố giác với cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
*********************************************************************************************
Ms: Trang_0905707389